Cách sử dụng ánh sáng để truyền tải thông tin có thể nói đã có lịch sử lâu đời.
“Tháp Beacon” hiện đại đã cho phép mọi người trải nghiệm sự tiện lợi của việc truyền thông tin qua ánh sáng.Tuy nhiên, phương thức liên lạc quang học nguyên thủy này tương đối lạc hậu, bị hạn chế bởi khoảng cách truyền dẫn có thể nhìn thấy bằng mắt thường và độ tin cậy không cao.Với nhu cầu phát triển của truyền tải thông tin xã hội, sự ra đời của truyền thông quang học hiện đại ngày càng được thúc đẩy.
Khởi động công nghệ truyền thông quang học hiện đại
Năm 1800, Alexander Graham Bell đã phát minh ra “điện thoại quang”.
Năm 1966, Gao Kun Anh-Trung đề xuất lý thuyết truyền dẫn cáp quang, nhưng vào thời điểm đó suy hao cáp quang lên tới 1000dB/km.
Năm 1970, việc nghiên cứu và phát triển công nghệ laser bán dẫn và sợi thạch anh đã giảm tổn thất sợi quang xuống 20dB / km, cường độ laser cao, độ tin cậy cao.
Năm 1976, sự phát triển không ngừng của công nghệ cáp quang đã làm giảm tổn thất 0,47dB/km, đồng nghĩa với việc tổn hao môi trường truyền dẫn đã được giải quyết, điều này thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền dẫn quang học.
Nhìn lại lịch sử phát triển của mạng lưới truyền tải
Mạng lưới truyền tải đã trải qua hơn bốn mươi năm.Tóm lại, nó đã trải qua PDH, SDH/MSTP,
Sự phát triển công nghệ và đổi mới thế hệ của WDM/OTN và PeOTN.
Thế hệ mạng có dây đầu tiên cung cấp dịch vụ thoại sử dụng công nghệ PDH (Plesiochronous Digital Hierarchy).
Thế hệ thứ hai cung cấp các dịch vụ truy cập Web và đường truyền dành riêng cho TDM, sử dụng công nghệ SD (Phân cấp kỹ thuật số đồng bộ)/MSTP (Nền tảng truyền tải đa dịch vụ).
Thế hệ thứ ba bắt đầu hỗ trợ kết nối các dịch vụ video và trung tâm dữ liệu, sử dụng công nghệ WDM (Ghép kênh phân chia bước sóng, Ghép kênh phân chia bước sóng)/OTN (Mạng truyền dẫn quang, Mạng truyền dẫn quang).
Thế hệ thứ tư đảm bảo trải nghiệm đường truyền riêng chất lượng và video độ phân giải cao 4K, sử dụng công nghệ PeOTN (Packet nâng caoOTN, OTN nâng cao gói).
Trong giai đoạn phát triển ban đầu của hai thế hệ đầu tiên, đối với các dịch vụ thoại, truy cập Internet Web và dịch vụ đường dây riêng TDM, được thể hiện bằng công nghệ hệ thống kỹ thuật số đồng bộ SDH/MSTP, nó hỗ trợ nhiều giao diện như Ethernet, ATM/IMA, v.v. và có thể kết nối CBR/VBR khác nhau.Đóng gói các dịch vụ vào khung SDH, cách ly vật lý các đường ống cứng và tập trung vào các dịch vụ hạt nhỏ và tốc độ thấp
Sau khi bước vào giai đoạn phát triển thế hệ thứ ba, với sự tăng trưởng nhanh chóng về năng lực dịch vụ truyền thông, đặc biệt là các dịch vụ kết nối trung tâm dữ liệu và video, băng thông mạng đã được tăng tốc.Công nghệ lớp quang được đại diện bởi công nghệ WDM giúp một sợi quang có thể mang nhiều dịch vụ hơn.Đặc biệt, công nghệ DWDM (Dense Wavelength Division Multiplexing) đã được sử dụng rộng rãi trong các mạng truyền dẫn vận hành lớn trong nước, giải quyết triệt để bài toán truyền dẫn.Vấn đề về khoảng cách và dung lượng băng thông.Nhìn vào quy mô xây dựng mạng, 80x100G đã trở thành xu hướng chủ đạo trên các đường trục đường dài, mạng cục bộ 80x200G và mạng khu vực đô thị đã phát triển nhanh chóng.
Để vận chuyển các dịch vụ tích hợp như video và đường dây chuyên dụng, mạng lưới giao thông cơ bản đòi hỏi sự linh hoạt và thông minh hơn.Vì vậy, công nghệ OTN dần xuất hiện.OTN là hệ thống công nghệ truyền dẫn quang hoàn toàn mới được xác định bởi ITU-T G.872, G.798, G.709 và các giao thức khác.Nó bao gồm cấu trúc hệ thống hoàn chỉnh của lớp quang và lớp điện, đồng thời có các mạng tương ứng cho mỗi lớp.Cơ chế giám sát quản lý và cơ chế tồn tại của mạng.Đánh giá từ xu hướng xây dựng mạng trong nước hiện nay, OTN đã trở thành tiêu chuẩn cho mạng truyền dẫn, đặc biệt là trong việc xây dựng mạng cục bộ của các nhà khai thác và mạng khu vực đô thị.Công nghệ OTN dựa trên phân tần lớp điện về cơ bản được áp dụng và kiến trúc phân tách đường nhánh được sử dụng., Để đạt được sự tách rời giữa phía mạng và phía đường dây, cải thiện đáng kể tính linh hoạt của mạng cũng như khả năng mở và triển khai dịch vụ nhanh chóng.
Chuyển đổi mạng lưới truyền tải theo định hướng kinh doanh
Việc tăng tốc hơn nữa quá trình chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội đã kéo theo sự phát triển song song của toàn bộ ngành CNTT và nền kinh tế số, đồng thời thúc đẩy và tạo ra những thay đổi sâu sắc trong ngành.Với sự tràn vào của một số lượng lớn doanh nghiệp đổi mới trong các ngành dọc, các ngành công nghiệp truyền thống và mô hình hoạt động, mô hình kinh doanh không ngừng được tái cấu trúc, bao gồm: tài chính, chính phủ, y tế, giáo dục, công nghiệp và các lĩnh vực khác.Trước nhu cầu ngày càng tăng về kết nối kinh doanh chất lượng cao và khác biệt, công nghệ PeOTN dần bắt đầu được sử dụng rộng rãi.
·Các lớp L0 và L1 cung cấp các ống “cứng” cứng được biểu thị bằng bước sóng λ và ODUk kênh phụ.Băng thông lớn và độ trễ thấp là những ưu điểm chính của nó.
·Lớp L2 có thể cung cấp ống “mềm” linh hoạt.Băng thông của đường ống hoàn toàn phù hợp với dịch vụ và thay đổi theo sự thay đổi của lưu lượng dịch vụ.Tính linh hoạt và theo yêu cầu là những lợi thế chính của nó.
Tích hợp các ưu điểm của SDH/MSTP/MPLS-TP để mang các dịch vụ hạt nhỏ, hình thành giải pháp mạng truyền tải L0+L1+L2, xây dựng nền tảng truyền tải đa dịch vụ PeOTN, tạo ra khả năng chuyên chở toàn diện với nhiều khả năng trong một mạng.Năm 2009, ITU-T đã mở rộng khả năng truyền dẫn của OTN để hỗ trợ các dịch vụ đa dạng và chính thức đưa PeOTN vào tiêu chuẩn.
Trong những năm gần đây, các nhà khai thác toàn cầu đã nỗ lực trong thị trường đường dây tư nhân-doanh nghiệp-chính phủ.Ba nhà khai thác lớn trong nước đang tích cực phát triển xây dựng mạng riêng của chính phủ-doanh nghiệp OTN.Các công ty của tỉnh cũng đã đầu tư rất nhiều.Cho đến nay, hơn 30 công ty điều hành cấp tỉnh đã mở OTN.Mạng riêng chất lượng cao và phát hành các sản phẩm đường dây riêng có giá trị cao dựa trên PeOTN, nhằm thúc đẩy mạng truyền tải quang từ “mạng tài nguyên cơ bản” thành “mạng truyền tải doanh nghiệp”.
Thời gian đăng: Nov-04-2021